Bệnh viêm não Nhật Bản (Japanese encephalitis, Japanese B encephalitis)
Ngày Đăng : 2024-10-12 / View: 248
Bệnh viêm não Nhật Bản (VNNB) là bệnh truyền nhiễm của người và động vật do vi-rút gây ra và lây truyền qua muỗi. Heo được coi là động vật cảm nhiễm cao nhất và là động vật khuếch đại vi-rút. Ở các nước Đông Nam Á, vi-rút VNNB là nguyên nhân quan trọng gây rối loạn sinh sản như sẩy thai, lứa đẻ ít con nhiều thai nhũn và thai chết; Hiện tượng vô sinh trên heo đực, đặc biệt trong mùa mưa, khi mật độ muỗi tăng cao.
NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH
Vi-rút VNNB trước đây được xếp vào họ Togaviridae trong nhóm B của các Flavivirus. Hiện nay, vi-rút này được xếp vào chi Flavivirus. Vi-rút có hình cầu có vỏ, đường kính khoảng 40nm, cấu trúc di truyền là một chuỗi RNA đơn với capsid có 20 mặt.
Vi-rút có thể nhân lên và gây bệnh tích trên nhiều loại tế bào, các loại tế bào sơ cấp và nhiều dòng tế bào từ động vật hữu nhũ, bao gồm tế bào Vero, tế bào thận chuột đất vàng con (BHK- baby hamster kidney), tế bào thận khỉ con (BMK- baby monkey kidney), nguyên bào sợi chuột nhắt L-M, những dòng tế bào có nguồn gốc từ ấu trùng hoặc phôi muỗi như dòng tế bào C6/36 từ tế bào ấu trùng của Aedes albopictus và dòng tế bào từ phôi của Aedes aegypti. Ngoài ra vi-rút cũng có thể nhân lên ở nguyên bào sợi phôi gà, màng nhung niệu của phôi gà và chuột bạch.
Vi-rút có sức đề kháng yếu, bị bất hoạt nhanh chóng bởi các chất sát trùng. Vi-rút nhạy cảm với ether chloroform, desoxycholate natri, những men phân giải protid hoặc lipid. Ở 56oC vi-rút bị bất hoạt sau 30 phút, vi-rút thích hợp ở pH= 8,5.
CƠ CHẾ SINH BỆNH
Trong tự nhiên, vi-rút được duy trì và lây truyền qua chu trình bao gồm: nhân tố trung gian muỗi (chủ yếu là chi Culex, quan trọng nhất là loài Culex tritaeniorhyncus), chim và động vật hữu nhũ. Heo bị nhiễm vi-rút do muỗi có mang vi-rút đốt, phát triển vi-rút huyết sơ phát khoảng 12 giờ đến vài ngày, sau đó vi-rút lan tỏa đến mô mạch ở gan, lách và cơ, tiếp tục sinh sản và gia tăng vi-rút huyết. Vi-rút vào hệ thần kinh trung ương qua đường dịch não tủy, tế bào màng nội mô, đại thực bào, lâm ba cầu nhiễm vi-rút hoặc qua đường máu. Ở con cái mang thai, sự truyền vi-rút qua nhau rõ ràng nhất khi heo bị nhiễm ở giai đoạn giữa của thai kỳ (Shimizu và cộng sự, 1954). Những quan sát trong thực tế cho thấy những thai chết và thai khô do heo mẹ bị nhiễm vi rút VNNB thường ở giai đoạn từ 40-60 ngày, thai trên 85 ngày ít bị ảnh hưởng (Sugimori và cộng sự, 1974). Thai chết là do sự nhân lên không kiểm soát được của vi-rút dẫn đến sự phá hủy các tế bào gốc (stem cells) làm cho thai không thể đạt đến độ tuổi có khả năng miễn dịch. Ở heo con vi-rút phát triển nhanh ở não gây tổn thương não dẫn đến các triệu chứng thần kinh.
TRIỆU CHỨNG
Trong tự nhiên, thỉnh thoảng có thể ghi nhận triệu chứng lâm sàng trên các heo con mẫn cảm, với các triệu chứng sốt, giảm cân, suy nhược, đờ đẫn, yếu hoặc liệt chân sau, chảy nước dãi, đôi khi có những dấu hiệu kích thích thần kinh như chạy hoảng loạn, hay co giật.
Thời kỳ ủ bệnh từ trong phòng thí nghiệm trung bình từ 1 đến 3 vài ngày.
Triệu chứng trên heo qua thực nghiệm trên heo 3 tuần tuổi qua đường tiêm tĩnh mạch cho thấy thân nhiệt heo bị gây nhiễm tăng trên 40-41oC với triệu chứng biếng ăn, suy nhược, run và liệt chân sau (Yamada và cộng sự, 2004), chạy hoảng loạn, chảy nước dãi,v.v,...
Trên heo nọc, bệnh có liên quan đến hiện tượng vô sinh trong mùa hè, heo nọc có thể bị viêm dịch hoàn, thủy thũng (hình 1), mào tinh cứng và giảm tính dục. Nhiều nghiên cứu đã phân lập vi-rút từ heo nọc bị viêm dịch hoàn, chứng minh sự xâm nhập vi rút vào cơ quan sinh dục gây rối loạn quá trình sinh tinh (Ogasa và cộng sự, 1977; Guérin và Pozzi, 2005). Những rối loạn trên chỉ tạm thời và con vật có thể bình phục, nhưng trong những trường hợp nặng heo nọc có thể bị vô sinh vĩnh viễn.
Tất cả heo trưởng thành, heo nái mang thai đều không có triệu chứng bệnh. Tuy nhiên, gần đây triệu chứng thần kinh cũng được ghi nhận từ các heo giống trưởng thành ngoại nhập. Các ảnh hưởng bệnh lý trên các heo cái mang thai được ghi nhận qua những dấu hiệu bất thường của lứa đẻ. Trong lứa đẻ có nhiều thai khô, thai chết, heo con yếu ớt với triệu chứng thần kinh như run, co giật (hình 2) và chết sau vài ngày. Thai của một lứa đẻ thường có kích thước khác nhau (hình 3), thai chết có biểu hiện phù thũng (hình 4) Hiện tượng sẩy thai ít được ghi nhận trong các nghiên cứu gây bệnh thực nghiệm (Chu và Joo, 1996).
BỆNH TÍCH
Bệnh tích đại thể
Bệnh tích không được ghi nhận ở heo nái bị nhiễm bệnh sau khi đẻ. Tuy nhiên, bệnh lý được ghi nhận chủ yếu là những bất thường của lứa đẻ từ những heo nái bị nhiễm vi-rút trong thời gian mang thai. Bệnh tích đại thể đáng chú ý là thai chết hoặc heo con sinh ra yếu ớt do viêm não tích dịch (hình 5), phù thũng ở da, tích nước xoang ngực (hình 6), xoang bụng (hình 7, hình 8), xuất huyết ở tương mạc, hạch lâm ba sung huyết, hoại tử ở gan và lách, sung huyết ở màng não và tủy sống (Burn, 1950). Nếu quan sát kỹ có thể thấy hệ thần kinh trung ương giảm sản ở một số vùng với biểu hiện võ não cực mỏng ở những heo con bị viêm não tích dịch (Shimizu và cộng sự, 1954). Ở heo nọc, dịch hoàn viêm, có nhiều dịch nhầy ở màng bao dịch hoàn, đồng thời có lớp fibrin dày ở mào tinh cũng như màng trong của bao dịch hoàn.
Bệnh tích vi thể
Bệnh tích vi thể quan trọng chủ yếu ở hệ thần kinhtrung ương đặc trưng bởi hiện tượng viêm não không mủ, tích dịch (Hình 9), có nhiều bạch cầu tập trung quanh mạch (hình 10), biến đổi bệnh lý chủ yếu được tìm thấy hệ thống lưới nội mô, nhiều điểm tăng sinh ở vùng tủy lách và viêm tổ chức kẽ ở phổi (Johnson, 1987).
Bệnh tích vi thể ở dịch hoàn là phù thũng, viêm với sự xâm nhiễm của nhiều tế bào ở mô kẽ của mào tinh và màng bao dịch hoàn. Hiện tượng thâm nhiễm và xuất huyết cũng được ghi nhận ở mô kẽ của dịch hoàn. Biểu mô ống sinh tinh bị thoái hóa (Hashimura và cộng sự, 1976; Ogasa và cộng sự, 1977).
PHÒNG CHỐNG BỆNH
Việc điều trị bệnh trên heo thường không có ý nghĩa, vì bệnh gây chủ yếu trên thai và chúng ta chỉ có thể chẩn đoán khi hiện tượng rối loạn sinh sản đã xảy ra. Bệnh VNNB trên heo có thể phòng chống bằng việc tránh không cho heo bị muỗi đốt. Tuy nhiên, điều này rất khó thực hiện, chỉ trừ khi ta có hệ thống chăn nuôi heo kín, đảm bảo không có muỗi. Do đó, tiêm phòng vắc-xin là lựa chọn tối ưu trong việc phòng bệnh.
PGS-TS Hồ Thị Việt Thu
(Kì II, còn tiếp)
Nguồn: Tạp chí chăn nuôi heo