Phòng chống bệnh Viêm não Nhật Bản trên heo Vaccine lựa chọn hiệu quả
Ngày Đăng : 2024-10-12 / View: 362
Bệnh viêm não Nhật Bản (VNNB) là bệnh truyền nhiễm chung của người và động vật, lây truyền qua muỗi, do Flavivirus gây ra. Hầu hết các loài gia súc đều cảm thụ với bệnh, bao gồm ngựa, heo, trâu bò, dê và cừu (Chu và Joo, 1996). Những động vật khác như thỏ, chuột, bồ câu (Chang và cộng tác viên (ctv), 1984; Hồ Thị Việt Thu, 2008), chó, vịt, gà, chim hoang và bò sát cũng cảm nhiễm (Doi và ctv, 1983, Hồ Thị Việt Thu, 2008). Heo được coi là động vật cảm nhiễm cao nhất, sau khi xâm nhập vào máu, vi-rút sinh sản nhanh chóng, nồng độ vi-rút trong cơ thể heo rất cao, do đó có khả năng truyền cho người và các động vật khác, có thể gây thành dịch (Chu và Joo, 1996). Ngoài ra, vi-rút VNNB cũng là nguyên nhân quan trọng gây thất bại sinh sản trên heo (Chu và Joo,1996; Hồ Thị Việt Thu, 2008 ). Trên người, vi-rút VNNB là một trong những nguyên gây viêm não phổ biến nhất ở nhiều nước châu Á. Ước tính, hàng năm trên thế giới có khoảng 68.000 ca bệnh và có khoảng từ 13.600- 20.400 trường hợp tử vong (WHO, 2019). Viêm não do vi-rút VNNB đặc biệt quan trọng, vì thường là viêm não cấp, tỷ lệ tử vong có thể lên đến 30% và khoảng 50% bệnh nhân sống sót bị di chứng thần kinh (Akira, 1988). Do tính chất nguy hiểm, bệnh đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của ngành y tế nhiều nước châu Á, nhiều loại vắc xin đã được nghiên cứu và sản xuất để phòng bệnh cho người (Phan Thị Ngà và ctv, 2004; Đoàn Thị Thủy và ctv, 1991; Akira, 1988). Ở nước ta, chương trình tiêm chủng mở rộng phòng ngừa cho người được áp dụng rộng rãi trong phạm vi cả nước nhằm mục đích hạn chế và đi đến thanh toán bệnh truyền nhiễm nguy hiểm này. Tuy nhiên, do đặc điểm dịch tễ của bệnh rất phức tạp, trong tự nhiên có rất nhiều gia súc và động vật hoang là nguồn cung cấp vi-rút cho chu trình truyền bệnh, đặc biệt là heo và chim, với véctơ truyền bệnh là muỗi, trong đó quan trọng nhất là muỗi Culex. Do đó việc phòng chống bệnh trở nên vô cùng khó khăn. Ngoài ra, việc phòng chống bệnh trên heo chưa được người chăn nuôi quan tâm, điều này làm thuận lợi cho sự phát triển của vi-rút một cách mạnh mẽ trên động vật khuếch đại để từ đó vi-rút được truyền cho người khi muỗi hút máu heo có chứa vi-rút, sau đó sẽ truyền vi-rút cho người khi muỗi đốt người. Để phòng chống bệnh trên heo một cách hiệu quả chúng ta cần hiểu rõ phương thức truyền lây của vi-rút VNNB nhằm có biện pháp thích hợp và có hiệu quả.
PHƯƠNG THỨC TRUYỀN L Y CỦA VI-RÚT VNNB
Từ những năm đầu tiên, sau khi phân lập được vi-rút, có rất nhiều ý kiến khác nhau về cách lây lan của bệnh. Việc lan truyền bệnh do muỗi, trước đây là một trong những giả thuyết, nhưng phải mất nhiều năm sau người ta mới chứng minh được vai trò của muỗi. Hiện nay, vai trò truyền bệnh của muỗi đối với bệnh đã xác định một cách chắc chắn và là nhân tố truyền bệnh chính có thể nói là vector duy nhất trong việc truyền bệnh cho người và động vật. Heo là thành viên quan trọng trong chu trình lây truyền bệnh viêm não Nhật Bản và là nơi vi-rút nhân lên gấp bội để truyền bệnh cho người và động vật khác. Hầu như tất cả heo đều phát triển vi-rút huyết khi bị muỗi có mang vi-rút đốt (Chen và Beaty, 1982).
Những nghiên cứu trong tự nhiên cho thấy, heo mẫn cảm khi được đưa vào vùng có bệnh lưu hành, chúng sẽ bị nhiễm vi-rút sau một tuần. Hiện tượng vi-rút huyết kéo dài trong 4 ngày hay dài hơn với nồng độ vi-rút là 106 SMICLD50 (suckling mouse intracranial lethal dose 50% - liều gây chết 50% chuột ổ khi tiêm vào xoang não) và có đến 30% muỗi bắt được trong vùng dương tính với vi-rút viêm não Nhật Bản (Komada và ctv, 1968; Maeda và ctv, 1978: Scherer, 1959). Vi-rút VNNB cũng được phân lập từ máu người trong nhiều trường hợp (Chan và Loh, 1966; Hermon and Anadarajah, 1974; Kedarnath và ctv, 1984). Tuy nhiên, việc nhiễm vi-rút huyết không phổ biến và nếu có thì nồng độ vi-rút trong máu rất thấp và thời gian vi-rút huyết rất ngắn, khi bệnh nhân có triệu chứng, vi-rút đã không còn trong máu. Do đó, người bị nhiễm vi-rút VNNB không thể là nguồn cung cấp vi-rút cho muỗi. Hơn nữa, chưa có dữ liệu dịch tễ nào chứng minh sự lây bệnh trực tiếp từ người sang người qua muỗi (Rosen, 1986).
Trên ngựa, mặc dù có nghiên cứu đã chứng minh được sự lây truyền từ chim sang ngựa, từ ngựa sang ngựa và từ ngựa cho chim do muỗi Cx. tritaeniorhynchus (Gould và ctv, 1964). Hiện tượng vi-rút huyết ở ngựa xảy ra sau khi nhiễm vi-rút từ 1-4 ngày và kéo dài từ 2-6 ngày với nồng độ 101,2 SMICLD50 (Endy và Nisalak, 2002), không đủ cung cấp cho muỗi tiếp tục gây nhiễm.
Nhiều loài gia súc khác cũng có thể bị nhiễm vi rút VNNB và phát triển kháng thể ở hiệu giá khá cao như trâu, bò, dê và có liên quan với những trận dịch xảy ra trên người (Peiris và ctv, 1993), tuy nhiên chưa có tài liệu nào chứng minh có tình trạng vi-rút huyết (Ilkal và ctv, 1988). Trong khi đó, ở loài chim nồng độ vi-rút huyết có thể lên đến 103,5 LD50 SMIC/0,03ml máu có thể được ghi nhận trên nhiều loài diệc, do đó chim hoang cũng là nguồn vi-rút quan trọng trong chu trình truyền bệnh (Ogata và ctv, 1970).
Trong phòng thí nghiệm, người ta đã chứng minh rất nhiều loài muỗi có thể nhiễm và truyền vi-rút VNNB, trong đó Culex. tritaeniorhynchus, Cx. gelidus, Cx. pseudovishnui và Cx. fucocephala được coi là những véctơ truyền bệnh quan trọng nhất. Các loài muỗi: Cx. pipiens pallens, Cx. quinquefasciatus, Cx. molestus, Cx. tarsalis và Anopheles tessalatus cũng có vai trò truyền bệnh cao nhưng kém hơn nhóm trên (Burke và Leake, 1988, Gresser và ctv, 1958; (Mourya và ctv, 1991). Muỗi Aedes. spp ít có vai trò truyền bệnh trong điều kiện phòng thí nghiệm. Có bốn cơ chế duy trì vi-rút ở môi trường là: sự trải qua đông, truyền vi-rút qua trứng, trứng nhiễm vi-rút lúc đẻ và lây truyền qua giao phối. Sự trải qua đông của vi-rút VNNB trong cơ thể muỗi Cx. tritaeniorhynchus và Cx. pipiens đã chứng minh sự duy trì vi-rút ở môi trường (Hayashi và ctv, 1975; Lee và ctv, 1971; Ura, 1976). Việc truyền vi-rút qua trứng đã được ghi nhận trên muỗi Cx. tritaeniorhynchus, Cx.bitaeniorhynchus Cx. vishnui và Ae. albopictus (Rosen và ctv,1989; Rosen và ctv, 1978; Soman, 1985). Ở Cx. vishnui, khoảng 10% muỗi cái có thể truyền vi-rút VNNB cho các con trưởng thành của nó (Soman và ctv, 1986). Ở Cx. tritaeniorhynchus, tỷ lệ muỗi cái truyền vi-rút sang thế hệ sau từ 12-100%. Ngoài ra, tỷ lệ truyền vi-rút cho thế hệ sau của muỗi tùy thuộc vào khoảng cách giữa thời điểm muỗi cái nhiễm và đẻ trứng. Việc truyền vi-rút qua giao phối giữa muỗi đực và muỗi cái cũng được ghi nhận ở Cx. tritaeniorhynchus, Cx. bitaeniorhynchus (Mourya và Soman, 1999), (Rosen và ctv, 1989).
Vi-rút sinh sản nhanh chóng trong Cx. tritaeniorhynchus, sự lan truyền vi-rút tùy thuộc vào điều kiện nhiệt độ môi trường. Sự lây truyền vi-rút trong quần thể muỗi cao nhất (100%) ở 280C sau 14 ngày, trong khi đó ở 200C cho đến ngày thứ 20 vẫn không xảy ra hiện tượng lây truyền vi-rút (Takashi, 1976).
Muỗi Culex thường hoạt động về đêm với hai thời điểm tìm mồi cao là lúc chập tối và sau nửa đêm (Gould và ctv, 1974). Khi muỗi hút máu người, động vật vào thời điểm vi-rút huyết, vi-rút sẽ lên đến tuyến nước bọt, sau một thời gian phát triển trong cơ thể
(8-14 ngày) ở điều kiện nhiệt độ bình thường. Lúc này, muỗi có khả năng gây nhiễm suốt đời và cũng là nơi tồn trữ vi-rút quan trọng.
Sự phát triển của muỗi chịu ảnh hưởng rất lớn bởi lượng mưa, nhiệt độ và ẩm độ. Nếu không hoặc rất ít mưa sẽ hạn chế mật độ muỗi, chỉ trừ những vùng canh tác lúa đang giữ nước trên ruộng. Tuy nhiên, nếu mưa quá nhiều sẽ làm cuốn trôi trứng và ấu trùng của muỗi. Khi nhiệt độ tăng sẽ có rất nhiều muỗi trưởng thành do chu kỳ phát triển từ trứng-ấu trùng-con trưởng thành ngắn hơn (Service, 1993) so với nhiệt độ thấp. Ở Việt Nam, và một số nước Châu Á với nền kinh tế sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với truyền thống chăn nuôi heo kết hợp với canh tác lúa nước, và khí hậu nhiệt đới ẩm là điều kiện lý tưởng cho sự sinh sản và phát triển của muỗi Culex, cũng như duy trì số lượng lớn vi-rút trong tự nhiên từ năm này sang năm khác, thuận lợi cho việc truyền bệnh cho người và gia súc (Endy và Nisalak, 2002).
PHÒNG CHỐNG BỆNH
Từ đặc điểm của phương thức truyền lây, biện pháp phòng chống bệnh VNNB bao gồm các biện pháp kiểm soát và tiêu diệt vector truyền bệnh là muỗi (quan trọng nhất là muỗi Culex) và tạo miễn dịch đặc hiệu cho heo qua việc tiêm phòng vắc-xin.
Kiểm soát yếu tố trung gian (muỗi) truyền bệnh
Việc kiểm soát vector rất khó thực hiện vì bao gồm nhiều loài muỗi truyền bệnh và tính chất của bệnh còn tùy thuộc vào điều kiện sinh thái của từng vùng.
Phương pháp sử dụng hóa chất giúp giảm mật độ muỗi trong một thời gian, được sử dụng trong công tác phòng chống bệnh trên người. Tuy nhiên, sử dụng các thuốc diệt côn trùng một cách hợp lý để diệt muỗi Culex và các giống muỗi khác gặp nhiều khó khăn vì các vector này sinh sản trên những ruộng lúa mênh mông luôn ngập nước, có nhiều chất hữu cơ, muỗi lại có khả năng bay và tìm mồi rất xa (Bailey và Gould, 1975; Wada, 1989). Do đó, để có thể diệt muỗi bảo vệ heo và người tránh muỗi đốt đòi hỏi phải sử dụng các hoá chất trong phạm vi bán kính khoảng một kilômét hay lớn hơn (Innis, 1995). Các thuốc diệt ấu trùng muỗi chỉ có tác dụng trong thời gian ngắn, nên muốn ngăn chặn sự phát triển của ấu trùng đòi hỏi phải sử dụng hóa chất nhiều lần. Ngoài ra, hiện tượng kháng thuốc ở muỗi và ấu trùng phát triển rất nhanh. Vấn đề trở ngại lớn nữa là ô nhiễm môi trường. Những điều này đã làm giảm tính thuyết phục của việc sử dụng hóa chất (Innis, 1995).
Do đó, người ta đồng thời áp dụng các biện pháp khác như:
Cải tiến phương pháp canh tác, tháo nước và bơm nước đảm bảo nước luôn lưu thông để trứng không đủ thời gian phát triển thành muỗi trưởng thành. Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp luân phiên giữ và tháo nước ở ruộng lúa đã làm giảm được 55-
70% Cx. tritaeniorhynchus và năng suất lúa trong đợt thí nghiệm tăng lên từ 4-13% (Keiser và ctv, 2005). Ở Trung Quốc, người ta áp dụng phương pháp giữ và tháo nước luân phiên ở các cánh đồng lúa, sau 4-5 ngày giữ nước trên ruộng thì tháo nước làm khô đất trong thời gian 24-48 giờ đã làm giảm đáng kể lượng muỗi Cx. tritaeniorhynchus (vector chính truyền bệnh VNNB) và muỗi Anopheles sinensis, vector truyền nguyên trùng sốt rét và giun chỉ bạch huyết (Service, 1993).
Ngoài ra, các biện pháp phòng chống muỗi sinh học khác như nuôi tôm hoặc cá trên ruộng lúa, loại bỏ các bể, hồ chứa nước đọng để không còn nơi cho muỗi sinh sản.
Xây dựng trại chăn nuôi cách xa ruộng lúa và xa nhà ở. Tránh muỗi đốt heo bằng cách sử dụng lưới chắn muỗi vào ban đêm, hoặc các thuốc xua muỗi, thuốc phun diệt muỗi.
Phòng muỗi đốt cho người và động vật bằng cách dùng lưới chắn muỗi, ngủ mùng, mặc quần áo tay dài, sử dụng các thuốc thoa xua muỗi. Thuốc thường sử dụng là dung dịch DEET 10-30% (N, N- diethyl meta-toluamide), phun lên quần áo hoặc bôi lên da trần, hoặc dùng các dụng cụ bẫy muỗi với chất dẫn dụ là octanol và carbon dioxide (CO2) đặt ở các cửa ra vào.
Tiêm phòng
Việc tiêm ngừa vắc-xin là yếu tố then chốt để phòng chống bệnh VNNB. Hiện nay vắc-xin VNNB vô hoạt chủng Nakayama hoặc Beijing sản xuất từ não chuột được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Sri Lanka, Ấn Độ, Mã Lai. Loại vắc-xin sống giảm độc chủng SA 14-14-2 được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và Nepal. Ở nước ta, vắc-xin vô hoạt chủng Nakayama sản xuất từ não chuột theo công nghệ của viện Biken, Nhật Bản đã có từ 1991, đạt tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới về chất lượng vắc-xin (Ngô Thùy Anh và Nguyễn Thu Vân, 2000; Huỳnh Phương Liên và ctv, 1991; Huỳnh Phương Liên và ctv, 1992; Đoàn Thị Thủy ctv, 1991). Vắc-xin được khuyến cáo tiêm ngừa cho trẻ em từ 12 tháng đến 15 tuổi, với liều 0,5ml dưới da cho trẻ em dưới 3 tuổi và 1ml cho trẻ em trên 3 tuổi, tiêm 2 mũi cách nhau từ 1-2 tuần, mũi thứ 3 sau 1 năm. Cứ 3 năm tiêm nhắc lại 1 lần để đảm bảo miễn dịch bền vững (Trần Văn, 2004)
Trên heo, việc tiêm ngừa vắc-xin cho đàn heo giống là biện pháp tốt nhất có thể thực thi trong các phương sách phòng chống bệnh. Ngoài ra, việc tiêm phòng trên heo có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh trên người. Có nhiều loại vắc-xin giảm độc đã được nghiên cứu và được sử dụng rộng rãi trong việc phòng bệnh VNNB trên heo. Nhiều loại vắc-xin giảm độc đã được sản xuất và đang sử dụng có hiệu quả trong thực tế (Fujisaki và ctv, 1975; Kwon và ctv, 1976). Vắc-xin bất hoạt có hiệu quả kém hơn nên ít phổ biến. Heo đực giống, nái và cái hậu bị cần được tiêm ngừa 2 lần cách nhau 2-3 tuần trước mùa muỗi phát triển mạnh. Các heo đực giống và cái hậu bị trước khi sử dụng làm giống cần phải được tiêm ngừa trước khi phối giống. Vắc-xin này có thể tiêm đồng thời với các vắcxin phòng những bệnh khác như vắc-xin dịch tả heo.
Hiện nay, thị trường trong nước ta đã có vắc-xin VNNB nhược độc BIO-L JE (Formosa-Đài Loan), được sản xuất từ chủng TS, mỗi liều chứa 105.0 TCID50 (50% tissue culture infectious dose-liều gây nhiễm 50% tế bào nuôi cấy). Vắc-xin được sử dụng qua đường tiêm dưới da, đối với heo con <4 tháng cần được tiêm 2 lần, cách nhau 4 tuần để khắc phục hiện tượng trung hòa vi-rút bởi kháng thể thụ động và để tạo miễn dịch kéo dài, heo >4 tháng tuổi chỉ cần tiêm 1 liều duy nhất. Hàng năm: Nái trước khi phối giống tiêm 1 lần. Đực thì cứ 06 tháng tiêm một lần. Mỗi 1 liều là 2ml.
PGS-TS Hồ Thị Việt Thu
(Kì V - Hết)
Nguồn: Tạp chí chăn nuôi heo