Viêm não Nhật Bản - Bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên người và động vật
Ngày Đăng : 2025-10-26 / View: 1663
Bệnh viêm não Nhật Bản (VNNB) là bệnh truyền nhiễm của người và động vật do vi-rút gây ra và lây truyền qua muỗi. Bệnh gây viêm não và rối loạn sinh sản. Hầu hết các loài gia súc đều cảm thụ với bệnh bao gồm ngựa, heo, trâu bò, dê và cừu. Heo được coi là động vật cảm nhiễm cao nhất và là động vật khuếch đại vi-rút.
LỊCH SỬ VÀ PHÂN BỐ BỆNH
Bệnh lần đầu tiên được mô tả trên người ở Nhật Bản năm 1871, sau đó bệnh luôn tái diễn có định kỳ; những trận dịch lớn đã được ghi nhận trên người vào năm 1924, 1935 và 1948 (Miyake, 1964; Shiraki, 1970). Trước đây, bệnh được gọi là bệnh viêm não Nhật Bản B, để phân biệt với bệnh viêm não ngủ Von Economo có đặc tính dịch tễ học và bệnh cảnh lâm sàng khác hẳn, lưu hành khắp nơi trên thế giới những năm sau thế chiến thứ nhất và được gọi là viêm não A.
Nguồn CDC (cập nhật, 2019)
Bệnh có tính chất dịch hoặc dưới dạng dịch địa phương ở các quốc gia châu Á, phía Bắc trải dài từ Đông Nam của Liên Xô cũ đến tận Indonesia và New Guinea ở phía Nam. Phía Đông bệnh được giới hạn từ Nhật Bản, Đài Loan và quần đảo Philippines. Trước đây, bệnh hiện diện ở cả những vùng xa xôi ở phía Đông như ở đảo Saipan (Paul, 1993) và Guam (Hammon, 1958), nhưng hiện nay không còn ghi nhận trên 2 đảo này. Bệnh cũng được ghi nhận ở Úc tại Bắc Queensland với dạng lẻ tẻ ở quần đảo Torres Strait. Bệnh thường có tính chất mùa và phổ biến ở vùng Viễn Đông của Nga, Siberia, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Indonesia, Miến Điện, Sri Lanka và Ấn Độ (Hanna và cộng sự, 1996).
TÍNH CHẤT QUAN TRỌNG CỦA BỆNH
Trên người
Virút VNNB là nguyên nhân gây viêm não phổ biến nhất ở các nước châu Á, bệnh trở thành vấn đề lo ngại đối với sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là ở vùng Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Ước tính, hàng năm trên thế giới có khoảng 68.000 ca bệnh và có khoảng từ 13.600- 20.400 trường hợp tử vong [WHO, 2019]. Bệnh phổ biến ở trẻ em dưới 14 tuổi (Thongcharoen, 1985). Bệnh gây viêm não, tiểu não và tủy sống. Bệnh nhân có triệu chứng sốt, nhức đầu, cứng gáy, thay đổi cảm giác, ói mửa, mắt mờ, mất ngủ hoặc ngủ li bì. Tỷ lệ chết khoảng 10-30%, đáng lo ngại là có đến 50% bệnh nhân khỏi bệnh mắc di chứng thần kinh (Akira, 1988). Hiện tượng sẩy thai cũng được ghi nhận trên phụ nữ mang thai (Chaturvedi và cộng sự, 1980).
Trên động vật
Ngựa mắc bệnh có triệu chứng viêm não,vật sốt, cử động khó khăn, bỏ ăn, lờ đờ, nghiến răng, niêm mạc đỏ ửng hoặc vàng, xuất huyết điểm, có triệu chứng thần kinh như mất điều hòa, loạng choạng, cổ cứng tạm thời và bại liệt. Trong trường hợp nặng, ngựa có triệu chứng điên loạn, mù, đổ mồ hôi, run cơ, ngã quỵ, tỷ lệ chết có thể lên đến 73% (Silva và cộng sự, 2011)
Trâu, bò và nhiều loài động vật cũng có thể bị nhiễm vi-rút VNNB và có đáp ứng kháng thể nhưng không có dấu hiệu lâm sàng.
Heo được coi là loài động vật cảm nhiễm cao nhất và là ký chủ khuếch đại vi-rút, heo con mắc bệnh với triệu chứng thần kinh do viêm não, bệnh nặng có thể chết. Ở các nước Đông Nam Á, vi-rút VNNB là nguyên nhân quan trọng gây rối loạn sinh sản như sẩy thai, lứa đẻ ít con nhiều thai nhũn và thai chết, và hiện tượng vô sinh trên heo đực, đặc biệt trong mùa mưa, khi mật độ muỗi tăng cao.
CHU TRÌNH TRUYỀN BỆNH
Trong tự nhiên, vi-rút được duy trì và lây truyền qua chu trình bao gồm: nhân tố trung gian muỗi (chủ yếu là giống Culex), chim và động vật hữu nhũ. Sự tồn tại của vi-rút chủ yếu nhờ vào những động vật mà sự nhiễm trùng không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng.
Heo được xem là động vật cảm nhiễm cao nhất, kế đến là chim. Một số động vật khác như trâu, bò, cừu, dê, khỉ cũng cảm nhiễm với vi-rút VNNB nhưng với mức độ thấp. Heo và chim được xem là nguồn chứa virút quan trọng để truyền cho muỗi.

Ở người và ngựa, khi nhiễm vi-rút có thể có triệu chứng hoặc không, nhưng khi bệnh diễn biến với triệu chứng nặng thì có thể chết. Tuy nhiên, nồng độ vi-rút huyết ở người và ngựa không đủ cung cấp cho muỗi để tiếp tục gây nhiễm. Do đó, người và ngựa được xem là ký chủ tử vong cuối cùng trong chu trình truyền bệnh (Barrett, 2008).
Trâu bò cũng có thể bị nhiễm vi-rút VNNB và có đáp ứng kháng thể nhưng không có dấu hiệu lâm sàng nhiễm trùng huyết. Kết quả nghiên cứu huyết thanh học của bệnh trên nhiều loài gia súc ở Mã Lai cho thấy tỷ lệ nhiễm vi-rút cao nhất được ghi nhận ở heo (88,1%), kế đến là trâu (45,0%), bò (42,0%), cừu (17,9%) và dê (13,8%) (Oda, 1996). Ở Việt Nam kết quả khảo sát huyết thanh trên nhiều loài vật nuôi và động vật hoang cho thấy tỷ lệ dương tính cao nhất được ghi nhận trên heo (90, 0%), rắn và dê với cùng tỷ lệ là 61,0%, kế đến là cò trắng(58,06%), bò (49,0%), trâu (41,94%), vịt (37,61%), và còng cọc, không phát hiện kháng thể kháng vi-rút VNNB trên gà (Hồ Thị Việt Thu, 2008)
Ngoài ra, vi-rút VNNB cũng được phân lập từ rắn, dơi, chuột và vi-rút cũng được chứng minh có thể tồn tại trong cơ thể của 2 loài thằn lằn (Takydromus tadydromoides và Eumeces latisculatus) trong kỳ ngủ đông (Doi, 1983). Vai trò của những ký chủ này trong sự duy trì nguồn bệnh trong tự nhiên vẫn chưa được biết.

Trong những năm gần đây bệnh được đã được khống chế ở Nhật Bản, Triều Tiên do điều kiện kinh tế xã hội phát triển như sự gia tăng đô thị hoá, giảm diện tích lúa canh tác, cải tiến trong chăn nuôi heo, đặc biệt là tiêm phòng vắc-xin. Tuy nhiên, bệnh vẫn còn là vấn đề đáng quan tâm đối với các nước Á Châu còn lại. Nước ta, do đặc điểm nền kinh tế sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với nghề truyền thống là chăn nuôi heo kết hợp với canh tác lúa nước và điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm là điều kiện lý tưởng cho sự sinh sản của muỗi cũng như việc duy trì số lượng lớn vi-rút trong tự nhiên từ năm này sang năm khác, thuận lợi cho việc truyền bệnh cho người và gia súc. Do đó, bệnh vẫn còn là mối đe dọa đến sức khỏe đàn heo cũng như là vấn đề đáng quan tâm của sức khỏe cộng đồng.
PGS-TS Hồ Thị Việt Thu
Kì 1 (còn tiếp)
Nguồn: Tạp chí chăn nuôi heo

